44 NĂM CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG

Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.

“Những đôi mắt”

Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.

Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.

“Cuộc Chiến 16 Ngày”

Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.

Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.

Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.

Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.

Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy.

Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách./. Huy Đức

1 thoughts on “44 NĂM CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG

  1. Sáng 17 tháng 2 năm 1979 (thứ bẩy ngày 21 tháng giêng âm lịch năm Kỷ mùi) chúng tôi vẫn tới cơ quan làm việc bình thường, nhưng từ mờ sáng đã nghe tiếng ì ầm. Người dân thị xã chúng tôi đã quen cuộc sống thanh bình từ hàng chục năm nay nên không phân biệt được đây là tiếng pháo của Trung Quốc bắn vào các vùng phụ cận của thị xã. Tỉnh Lao Cai được giải phóng sau Chiến dịch biên giới 1950. Suốt thời chiến tranh chỉ có một lần một tốp phản lực Mỹ bay qua bắn mấy băng đạn. Đến 10 h sáng mới được tin quân Tàu đã đánh ta tại Lao Cai. Chúng bắc cầu phao vượt sông Hồng qua phía tây bắc (Quang Kim-Bát Xát) đánh về thị xã, ở phía đông bắc (đường đi Hà nội) quân chúng cũng đánh sang Bản Quẩn, Bản Phiệt rồi chia hai ngả đánh về thị xã và đánh xuôi về Phố Lu. Ngoài ra bọn giặc Tàu còn đánh sang Bát Xát từ đó vòng xuống tàn phá thị trấn nghỉ mát Sa Pa, tràn xuống Bến Đền và một hướng khác nữa từ Mường khương đánh xuống hợp quân với lũ đánh vào thị xã rồi xuôi về Phố Lu.
    Trên toàn tuyến biên giới Lao Cai (185,7 km) chúng đã huy động hơn 15 vạn quân thuộc các quân đoàn 13, 14 và một số đơn vị tăng cường (do tên tướng cướp Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh chỉ huy) đồng loạt đánh vào đất của ta. Thế là người dân và viên chức của nhà nước bị xô vào một cuộc chạy giặc không được chuẩn bị trước. Cả giòng người chen nhau hơn chục cây số trên con đường từ Cầu Số Bốn vào đến Giốc Đỏ để vào thị xã Cam Đường (ngày xưa Lao Cai có hai thị xã: Cam Đường-Mỏ Apatit và Lao Cai-thủ phủ). Hàng vạn con người ra sức chạy trên con đường trống trơn ở một địa hình đồi thấp chốc chốc lại nghe tiếng rít của đạn pháo, đạn cối, tiếng hỏa tiễn H12 chíu chíu, rồi một loạt tiếng nổ đinh tai nhức óc khói lửa bốc lên mù mịt, người dân lúc đó sợ quá chỉ còn biết ôm đầu, nằm lăn ra rãnh nước bên vệ đường, úp mặt xuống đất. Thôi thì người ta dùng đủ mọi thứ có sẵn để chạy nhanh khỏi vùng chiến sự, trẻ em được gánh trên quang hoặc địu sau lưng mẹ. Mạnh ai người đó chạy vì được phổ biến chỉ đi có vài ngày và cũng không được chuẩn bị trước nên có người chỉ ra đi với một ít tiền bạc và vài bộ quần áo cùng chiếc xe đạp là tài sản quý giá nhất lúc bấy giờ. Chắng ai biết được nhà cửa, đồ đạc của họ để lại sau này sẽ chẳng còn. Thế là gần như toàn bộ dân chúng tôi ra đi với hai bàn tay trắng.
    Tuy nhiên thanh niên, dân quân tự vệ và bộ đội đặc biệt là bộ đội biên phòng (lúc đó gọi là Công an võ trang) đã dũng cảm chặn đánh địch làm chậm bước tiến của kẻ thù. Tại Lao Cai xuất hiện nhiều tấm gương như anh hùng liệt sỹ Nguyễn Bá Lại (1) ở Đoàn địa chất 5, anh Bùi Nguyên Khiết (2) hy sinh trong khi làm báo và chiến đấu với quân giặc tại huyện Mường Khương. Anh Hòa cựu chiến binh chống Mỹ về nhà chưa có việc làm đã vào một đơn vị bộ đội (thuộc Tiểu đoàn Kiên Cường) tham gia đánh giặc và bắn cháy xe tăng địch (được phong anh hùng), khi mấy chục xe tăng của chúng đang co cụm tại giốc Pháo Đài từ Nhà Máy nước xuống Cầu chui. Một số em nhỏ tự nguyện không chạy giặc, cùng một đơn vị biên phòng cự lại với chúng. Bố con bác Nghiên một thương binh chống Pháp ở khu phố Duyên Hải kéo cả gia đình lên chốt chống lại bọn xâm lược. Tiểu đoàn Kiên Cường một đơn vị bộ đội địa phương mới được thành lập nòng cốt là các cựu binh thời đánh Mỹ và con em mới lớn của Nhân dân các Dân tộc Lao Cai, Yên Bái tham chiến kìm chân quân xâm lược. Các trận đánh ác liệt xẩy ra tại Bản Phiệt, Cầu chui, Phong Niên, Phong Hải, Bắc Ngầm, Bến Đền, Phố Lu đã khiến chúng không dám tiến sâu vào đất ta. Trong những ngày đầu Tiểu đoàn Kiên Cường chặn đánh 4 sư đoàn của giặc diệt rất nhiều sinh lực địch. Có chiến sỹ một mình đã hạ được 72 tên xâm lược trong một trận đánh. Kết thúc Quân Dân Lao Cai đã tiêu diệt 14.500 lính, phá hủy 273 xe tăng, 30 khẩu pháo của bọn giặc Tàu mặc áo cộng sản. Thật hả lòng, hả dạ khi thấy lũ ăn cướp bị trừng trị đích đáng!
    Người dân chúng tôi thấy quá bất ngờ trước việc Trung Quốc đánh ta, dù từ cuối những năm 60 họ đã có những việc “lạ” đối với biên giới của ta, rồi khiêu khích, tuyên truyền, nạn kiều, tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lí, đưa lực lượng quân đội quy mô lớn, trang bị mạnh ra áp sát biên giới, chĩa pháo sang Việt Nam, tung thám báo biệt kích sang quấy rối, gây tình hình rất phức tạp trên toàn tuyến biên giới. Nhưng mang quân đánh sang đất ta, giết Đồng bào, Chiến sỹ ta thì thật là “lạ” và không thể hiểu nổi. Thế thì chủ nghĩa quốc tế của những người cộng sản có còn tồn tại nữa không?
    Sau khi bọn xâm lược tháo chạy về nước, thị xã Lao Cai xinh đẹp thanh bình của chúng tôi chỉ còn là một đống đổ nát, hoang tàn. Những công trình công cộng: nhà ga, đường xe lửa, cầu cống, nhà bưu điện, nhà máy nước, nhà máy điện, nhà máy đường, nhà máy sứ, trại giống gà công nghiệp, trụ sở làm việc của các cơ quan, đoàn thể, trường học, bệnh viện bị bọn “B52 chân đất” (3) cướp phá hết. Thứ gì không lấy đi được thì chúng phá để thứ đó không còn giá trị sử dụng, như đường ray xe lửa chỗ nào không kịp tháo cứ một mét chúng dùng mìn đánh thủng một lỗ. Mấy căn nhà lắp ghép chúng đánh sập chân nhiều căn hộ tầng một khiến cho ta có cảm tưởng chỉ cần gió mạnh là các tầng trên đổ ụp xuống. Khu mỏ Apatit của ta bị chúng cướp phá sạch trơn. Nhiều thiết bị máy móc Liên xô mới giúp còn nguyên hòm cũng bị cướp bóc. Nhà cửa nhân dân, đồ gỗ, đồ điện tử, đồ gia dụng không còn. Có ý kiến cho rằng do sau chiến tranh khu vực thị xã trở thành vùng trắng ban ngày dân mới được trở lại đêm phải ra nên có hiện tượng hôi của. Nếu đúng thì đó lại là trách nhiệm của chính quyền đã không đảm bảo tài sản cho người dân. Nhưng suy cho cùng nếu không có sự tráo trở hèn hạ của người bạn “núi liến núi sông liền sông,… mối tình hữu nghị sớm như rạng đông” (4) kia gây ra, thì đâu đến nỗi người dân chúng tôi tay trắng. Trong thời gian đánh sang ta bọn Trung Quốc còn dùng mã tấu giết hại dã man mấy chục em bé tại một nhà trẻ ở trung tâm huyện Bát Xát cũ.
    Đối với người từng sống nhiều năm ở Lao Cai chứng kiến những thăng trầm của lịch sử tại mảnh đất này chúng tôi mãi mãi không quên ngày 17 tháng 2 năm 1979. Những người bây giờ các phương tiện thông tin nhà nước gọi chúng nó là “đồng chí”, “bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng”, cùng theo đuổi “lý tưởng cộng sản” chỉ là bọn đã cướp phá sạch trơn và hủy diệt dã man thị xã thanh bình xinh đẹp của chúng tôi, biến chúng tôi thành những người tỵ nạn ngay trên mảnh đất đã nhiều đời ông cha chúng tôi và chính chúng tôi đổ máu, đổ mồ hôi xây dựng nên. Nay dù bọn chúng có tự tô son vẽ phấn và lừa bịp nhiều người nhẹ dạ nhưng chúng tôi những người chạy giặc năm ấy và sau này phải sống trong điều kiện thiếu thốn căng thẳng sau cuộc xâm lược của quân bành trướng bá quyền Trung Quốc năm 1979 mãi mãi ghi sâu mối thù và sẽ truyền đời cho con cháu sự kiện tháng 2 năm 1979.
    Ngày nay thị xã quê hương chúng tôi đã được xây dựng lại sau ngày tái lập lại tỉnh Lao Cai, rồi được nâng lên thành đơn vì hành chính thành phố thuộc tỉnh. Các dấu vết chiến tranh đã xóa mờ trong tâm trí người già. Chính quyền đã cố làm cho người dân quên đi những hành động thú tính tàn bạo của lũ “B52 chân đất” ngày đó bằng những từ ngữ hoa mỹ nhất, bằng việc bắt dân treo đèn lồng đỏ của Tàu dịp 01/10/2011, xuyên tạc kỷ niệm ngày tái lập tỉnh đúng vào ngày khai sinh ra cái chế độ giả danh cộng sản quái thai kia (5), bằng việc cán bộ đảng, chính quyền lũ lượt kéo nhau sang học tập “bạn” cách làm kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng đảng và đâu đó có những người không muốn nhắc đến các chiến công, sự hy sinh, mất mát của Đồng bào và Chiến sỹ ta trong gia đoạn 1978-1988. Những ngày đau thương và căm giận đó mãi mãi không bao giờ có thể xóa đi trong trí nhớ của người dân thành phố Lao Cai và của toàn thể con dân Nước Việt chúng ta. Sự hy sinh của Nhân dân ta, Bộ đội ta đặc biệt là các tấm gương tiêu biểu như anh Nguyễn Bá Lại, anh Bùi Nguyên Khiết những người con không sinh ra tại mảnh đất Lao Cai, nhưng đã sống, lao động, chiến đấu và hy sinh vì quê hương Lao Cai mãi sống trong lòng những con người chân chính của thành phố Lao Cai chúng tôi.
    Nhân ngày kỷ niệm sự kiện trên người dân thành phố Lao Cai chúng tôi xin được thành tâm thắp một nén nhanh dâng lên các anh và Quân Dân các Dân tộc Lao Cai Yên Bái, Nghĩa Lộ (tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ) những người đã ngã xuống trong ngày này mấy chục năm trước, cùng toàn thể Đồng bào, Chiến sỹ đã hy sinh trong giai đoạn 1978-1988. Những nén tâm nhang cũng dành cho các người con của giòng máu Lạc Hồng đã ngã xuống trong trận đánh chống lại bọn xâm lược Tàu giả danh cộng sản tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988. Chúng tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sự ngưỡng mộ và hướng về Đồng bào, Chiến sỹ đang đứng chân bảo vệ các đảo của quần đảo Trường Sa hôm nay và cả những ngư dân vẫn bám biển đánh cá khẳng định chủ quyền của nước Việt chúng ta đối với hai quần đảo này!
    _________________________
    (1) Nguyễn Bá Lại quê Thái Bình. Anh là kỹ sư địa chất đã sống và làm việc ở Đoàn địa chất 305 (ngày đó thường gọi là Đoàn địa chất số 5). Ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn Tàu cho pháo bắn dồn dập và dùng lực lượng lớn vượt hai cầu phao bắc qua sông Hồng, chiếm các điểm cao và bao vây khu vực đoàn bộ đoàn địa chất 305. Trung đội anh Nguyễn Bá Lại chiến đấu ở hướng chính diện của địch tấn công từ hướng mỏ đồng Sin Quyền. Anh Nguyễn Bá Lại đã diệt bảy tên, thu một súng AK. Trung đội của anh đã đánh lui nhiều đợt tiến công của địch. Giặc Tàu dùng cối bắn cấp tập rồi ồ ạt xông lên điểm chốt của ta. Anh Nguyễn Bá Lại nhảy lên khỏi hầm dùng AK bắn thẳng vào đội hình giặc. Noi gương anh, nhiều anh em trong hầm cũng đứng lên chiến đấu. Bất ngờ một tên địch lao vào cách hầm 2m, trên tay cầm quả lựu đạn đang xì khói. Anh Nguyễn Bá Lại nổ súng bắn nó ngã gục, quả lựu đạn văng vào trong hầm. Anh lập tức nằm đè lên quả lựu đạn, nhận sự hy sinh về mình để cứu sống sáu đồng đội trong hầm. Anh Nguyễn Bá Lại đã cùng đơn vị bẻ gãy tất cả các đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên, bảo vệ an toàn tài liệu địa chất và hơn 300 cụ già, cháu nhỏ. Anh được truy tặng Huân chương chiến công hạng ba và danh hiệu Anh hùng.
    (2) Bùi Nguyên Khiết liệt sỹ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo quê anh ở xã Xích Thổ, huyện Nho Quan (Ninh Bình). Trước ngày chiến tranh biên giới nổ ra, là phóng viên báo Hoàng Liên Sơn, Anh mang máy ảnh, sổ tay theo các đơn vị chủ lực ngược dòng người chạy xuôi, lên biên giới để tận mắt ghi lấy cảnh chiến đấu của quân và dân ta chống quân xâm lược. Anh hy sinh ngày 17/02/1979 tại bản Tả Ngải Chồ (huyện Mường Khương) trong khi đang làm báo và trực tiếp cầm súng chiến đấu với quân giặc Tàu xâm lược.
    (3) Từ báo chí ta lúc đó chỉ đội quân ăn cướp của lũ giặc Tàu mặc áo cộng sản (PLA People’s Liberation Army).
    (4) Lời bài hát “Việt Nam Trung Hoa” của nhạc sỹ Đỗ Nhuận.
    (5) Ngày giải phóng Lào Cai 10/11/1950 thừa thắng trong chiến dịch Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 (16/09-17/10/1950). Tháng 11 không phải tháng 10. Người Pháp thành lập tỉnh Lao Kay ngày 12/07/1907 (Lao Kay danh từ riêng người Pháp dùng trong văn bản giấy tờ, dân ta quen gọi Lao Cai). Ngày tái lập tỉnh Lao Cai 10/10/1991 (theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII họp từ ngày 22/7 đến ngày 12/8/1991).
    (6) Bài viết này đã được đưa lên Blog Nguyễn Xuân Diện dưới dạng Comment ngày 17/02/2011. Năm 2011 người viết bài này cũng đã tham gia nhiều lần các cuộc biểu tình của nhân dân Thủ đô chống lại sự gây hấn của giặc Tàu giả danh cộng sản trên vùng biển của Việt Nam trong mùa hè và đầu thu năm qua tại vườn hoa Canh nông và Bờ hồ. Nay xin viết và biên tập lại sau khi đã thực hiện một số cuộc trò chuyện cùng những Chiến sỹ của Tiểu đoàn Kiên cường và một số nhân chứng còn sống năm xưa tại Lao Cai.

Bình luận về bài viết này